Khô hạn song hành cùng mưa lũ
Trung tuần tháng 8/2019, các tỉnh Nam Trung bộ “oằn mình” trong nắng hạn, nhiều nơi vượt ngưỡng 400C. Cái nắng như thiêu như đốt vắt kiệt cỏ cây; nước bốc hơi cũng rất nhanh, cứ mỗi mét vuông đất ruộng lại mất đi 5 - 7mm nước mỗi ngày.
Kết quả quan trắc của Trung tâm Dự báo Khí tượng - Thủy văn (KTTV) quốc gia cho thấy, nền nhiệt ở khu vực này cao hơn trung bình nhiều năm. Cùng với đó, lượng mưa trung bình tại khu vực đều thấp hơn các năm, chỉ đạt 350 - 550mm. Đặc biệt trong các tháng 5 - 7 vừa qua, lượng mưa ở các tỉnh miền Trung chỉ xấp xỉ 45 - 70% so với các năm.
Theo ông Vũ Đức Long, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo KTTV quốc gia, do ảnh hưởng của El Nino (hiện tượng nóng lên dị thường của lớp nước biển bề mặt), từ đầu năm 2019 đến nay, không chỉ khu vực Nam Trung bộ mà ở hầu hết các vùng trong cả nước, nền nhiệt độ trung bình các tháng có xu hướng cao hơn trung bình nhiều năm 0,5 - 10C.
Ông Long nhận định, hiện tượng El Nino yếu duy trì từ nay đến khoảng tháng 11/2019 với xác suất khoảng 50 - 55%. Do đó, tình trạng hạn hán, thiếu nước và xâm nhập mặn ở khu vực Nam Trung bộ và nhiều khu vực khác dự báo sẽ luôn thường trực.
Trong khi một nửa phía Nam miền Trung nắng nóng kỷ lục thì cuối tháng 8, đầu tháng 9, các tỉnh Bắc miền Trung lại đón lũ lớn. Từ Thanh Hóa vào đến Quảng Trị, nhiều xã, bản tại các huyện miền núi bị nước lũ chia cắt, nhiều điểm dân cư bị cô lập cục bộ. Theo thống kê của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai, mưa lũ cuối tháng 8, đầu tháng 9 đã làm hơn 15.000 ngôi nhà bị ngập, 3.700 hộ phải sơ tán, 12.000ha lúa bị ngập, 900 trường phải lùi ngày khai giảng năm học mới 2019 - 2020.
Dù nắng hay mưa đều thiếu nước sinh hoạt
Diễn biến bất thường của thời tiết đã ảnh hưởng đến đời sống của người dân trên tất cả mọi phương diện. Đặc biệt là tình trạng thiếu nước sinh hoạt xảy ra trên diện rộng làm đảo lộn cuộc sống của trăm nghìn hộ dân trên dải đất miền Trung.
Lên huyện miền núi Nam Đông (Thừa Thiên - Huế) vào giữa tháng 8/2019 mới thấu hiểu nỗi cơ cực của người dân khi thiếu nước sinh hoạt. Những khe suối xa nhất đã được bà con lần tìm để lấy nước cũng chẳng thể đáp ứng cho hơn 3.000 hộ dân trên địa bàn huyện trong cơn nắng hạn.
Không chỉ vào mùa khô hạn mà sau mưa lũ, tình trạng khan hiếm nước sạch sinh hoạt lại càng trầm trọng hơn. Hệ thống sông suối sau mưa lũ bị ô nhiễm nặng do rác từ thượng nguồn theo nước tràn vào, trong khi đây vẫn là nguồn cấp nước tự nhiên cho người dân miền núi.
Tình trạng thiếu nước sinh hoạt được dự báo sẽ ngày càng trầm trọng hơn bởi biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp. Trong khi đó, chỉ sau một lần nắng hạn hoặc mưa lũ, nhiều công trình cấp nước sinh hoạt (tập trung và phân tán) được xây dựng ở miền núi sẽ bị phá hủy hoặc không còn khả năng cấp nước.
Thường xuyên gặp sự cố
Thời gian qua, từ nhiều chương trình, dự án, người dân khu vực miền núi đã được đầu tư nhiều công trình NSH. Nhưng thời tiết bất thường khiến cho việc vận hành các công trình cấp NSH cho người dân miền núi thường gặp sự cố.
Vào mùa nắng hạn, nhiều công trình cấp NSH ở khu vực miền núi không hoạt động do suối khô, sông cạn. Nhưng vào mùa mưa lũ, không ít công trình cũng không thể cấp nước do bị đất đá vùi lấp, hư hỏng; việc sửa chữa, khắc phục là rất khó khăn, tốn nhiều kinh phí.
Công trình cấp NSH tập trung có vốn đầu tư hơn 15 tỷ đồng ở thị trấn Mường Lát (huyện biên giới Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa) là một ví dụ. Đợt mưa lũ cuối tháng 8/2018 đã cuốn trôi, vùi lấp hệ thống dẫn nước kéo từ núi bản Poọng (xã Tam Chung) về thị trấn Mường Lát, “cắt đứt” nguồn NSH của người dân trên địa bàn.
Sau sự cố, tỉnh Thanh Hóa đã “hỏa tốc” phê duyệt phương án đầu tư đường cấp nước tạm thời (5km) từ đập đầu nguồn Pom Puôi, đấu nối vào hệ thống cấp nước cũ, kinh phí thực hiện 3,5 tỷ đồng. Nhưng hoàn lưu bão số 3, số 4 năm 2019 (xảy ra cuối tháng 8) gây mưa lớn, lũ quét cũng đã phá hủy đường cấp nước tạm thời này.
Vì thế, từ cuối tháng 8/2018 đến thời điểm này (tháng 11/2019), thị trấn Mường Lát khan hiếm NSH. Toàn thị trấn có hơn 2.500 hộ dân thì gần 1.700 hộ thiếu NSC trầm trọng; mọi khe suối đều được tận dụng triệt để.
Không chỉ ở thị trấn Mường Lát mà rất nhiều công trình cấp NSH ở khu vực miền núi có tuổi thọ không cao; tỷ lệ cấp nước rất thấp do thường xuyên bị lũ quét, sạt lở đất. Khảo sát của Viện Quy hoạch Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) tại 19.004 công trình cấp NSH trên địa bàn 8 tỉnh miền núi phía Bắc (Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, Lạng Sơn, Hòa Bình, Cao Bằng, Lào Cai) cho thấy, tỷ lệ cấp nước chỉ đạt 34,5% so với thiết kế ban đầu.
“Khát” nước và nguy cơ dịch bệnh
Theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, từ năm 2012 đến nay, nhiều chương trình, dự án hỗ trợ NSH đã triển khai ở miền núi. Chỉ tính riêng thực hiện Quyết định 755/QĐ-TTg, tại 52 tỉnh vùng DTTS đã có 476 công trình NSH tập trung được xây dựng; ngoài ra đã có 249.251 hộ được hỗ trợ nước phân tán. Nhưng đến thời điểm này, toàn vùng vẫn còn 313.219 hộ thiếu NSH.
Thiếu NSH nên người dân miền núi phải sử dụng nước rất tiết kiệm. Như cách giáo viên, học sinh Trường THCS Dân tộc nội trú huyện Mường Lát (Thanh Hóa) đã thực hiện từ cuối tháng 8/2018 đến nay: Tắm rửa thì tìm những vũng có nước tích tụ từ các mạch nước ngầm; nước vệ sinh thì dồn các loại NSH vào một bể để dùng dần...
Việc bắt buộc phải tiết kiệm NSH theo cách này là nguy cơ bùng phát dịch bệnh. Bởi nguồn nước (nước ngầm và nước bề mặt) ở khu vực miền núi đã bị ô nhiễm do trong quá trình canh tác, người dân đã “quá tay” sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, cùng với đó là tập quán chăn nuôi thả rông; ngoài ra còn nhiều nguồn gây ô nhiễm bất thường khác cũng luôn thường trực.
Vụ việc một lượng lớn dầu thải bị đổ trộm gây ô nhiễm suối Trầm, suối Bằng ở xã Phúc Tiến, huyện Kỳ Sơn (Hòa Bình), kéo theo hệ lụy hàng chục nghìn hộ dân ở Thủ đô Hà Nội phải dùng NSH “bẩn” đầu tháng 10/2019 là lời cảnh báo. Lâu nay, việc xây dựng các công trình cấp NSH đều lấy nguồn từ khe suối đầu nguồn. Điều này đặt dấu hỏi lớn về an ninh nguồn nước cho người dân miền núi.
Nguồn nước ngầm suy giảm
Tại Lai Châu, theo khảo sát của Viện Quy hoạch thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tỷ lệ cấp nước của 543 công trình NSH tập trung trên địa bàn chỉ đạt 22,9%. Còn tại Lào Cai, tỷ lệ cấp nước của 749 công trình NSH chỉ đạt 22,1%…
Các công trình NSH không đáp ứng nhu cầu nên phần lớn người dân miền núi vẫn phải dùng nước từ khe, suối hoặc từ nguồn nước ngầm (giếng đào, giếng khoan). Nhưng theo cảnh báo của Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia (Bộ Tài nguyên và Môi trường), mực nước ngầm của nước ta đang hạ thấp theo thời gian, bình quân sụt giảm 5 - 10cm mỗi năm.
Ngoài BĐKH thì việc khai thác tràn lan, nhất là tình trạng khoan giếng tùy tiện, là nguyên nhân khiến nguồn nước ngầm bị suy giảm. Theo thống kê của Bộ Y tế, cả nước hiện có hơn 4 triệu giếng khoan; trong đó có hàng trăm nghìn giếng khoan không còn nước, nhưng không được lấp lại. Đây là nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước ngầm khi chất thải sinh hoạt và sản xuất sau mỗi lần lũ lụt theo đường giếng ngấm vào lòng đất.
Tình trạng nguồn nước ngầm bị ô nhiễm đã là một thực tế từ nhiều năm nay. Kết quả phân tích của Bộ Y tế cho thấy, trong hơn 4 triệu giếng khoan trên cả nước thì có nhiều giếng có nồng độ asen (thạch tín) cao hơn 20 - 50 lần giới hạn cho phép (0,01mg/l).
Chính sách “lỗi nhịp”!
Từ năm 2004 đến nay, thực hiện chính sách hỗ trợ NSH cho đồng bào DTTS, hàng trăm nghìn công trình NSH đã được đầu tư xây dựng. Ngân sách Trung ương đã chi số tiền không nhỏ để thực hiện chính sách này.
Chỉ tính riêng thực hiện Quyết định 755/QĐ-TTg, theo Báo cáo số 5962/BC-BKHĐT ngày 23/8/2019 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giai đoạn 2013 - 2015, ngân sách Trung ương đã hỗ trợ các địa phương 618,8 tỷ đồng đầu tư xây dựng 476 công trình NSH tập trung; hơn 324 tỷ đồng để hỗ trợ NSH phân tán 249.251 hộ.
Trước đó, thực hiện Quyết định 134/2004/QĐ-TTg, theo Báo cáo số 205/HĐDT12, ngày 8/5/2008 của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, giai đoạn 2004 - 2008, 1.141,34 tỷ đồng đã được bố trí để xây dựng 3.117 công trình NSH tập trung; 44,6 tỷ đồng để hỗ trợ cho NSH phân tán cho 148.816 hộ.
Tuy nhiên, theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, toàn vùng DTTS và miền núi hiện vẫn còn 313.291 hộ đồng bào DTTS thiếu NSH. Đặc biệt, tình trạng thiếu NSH được dự báo sẽ ngày càng trầm trọng khi nguồn nước đang bị suy giảm nghiêm trọng cả về số lượng lẫn chất lượng.
Việc bảo đảm NSH cho người dân miền núi càng khó khăn hơn bởi ngoài 313.291 hộ còn thiếu NSH thì tình trạng công trình NSH đã được xây dựng nhưng cấp nước không hợp vệ sinh (HVS) còn rất cao. Như ở Sơn La, trong 1.605 công trình NSH thì tỷ lệ cấp nước HVS chỉ đạt 29%; Bắc Kạn có 615 công trình thì tỷ lệ cấp nước HVS chỉ đạt 46%;…
Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội đã thảo luận để thông qua nghị quyết về Đề án Tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi. Đề án được kỳ vọng sẽ giải quyết triệt để những vướng mắc trong phát triển vùng DTTS và miền núi hiện nay, trong đó có vấn đề NSH với những giải pháp mới, mang tính đột phá.
Theo Báo Dân tộc