Đất ngập nước chiếm vị trí quan trọng trong cấu trúc lãnh thổ quốc gia, có chức năng và vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của đất nước và là nguồn sinh kế của cộng đồng các địa phương. Tuy nhiên, các vùng đất ngập nước và công tác quản lý, bảo tồn đã và đang phải đối mặt với nhiều đe dọa của cả tự nhiên và con người.
Nhiều vùng đất ngập nước bị thu hẹp, suy thoái, ô nhiễm, không bền vững và khai thác không hiệu quả, đòi hỏi phải bảo tồn hiệu quả và sử dụng khôn khéo các vùng đất ngập nước theo hướng lồng ghép các vấn đề về bảo tồn và sử dụng bền vững đất ngập nước vào các chính sách phát triển ngành, lĩnh vực và các địa phương.
Những chức năng quan trọng
Với tổng diện tích khoảng gần 12 triệu ha, chiếm 37% tổng diện tích tự nhiên, trong đó có hơn 7,3 triệu ha canh tác nông nghiệp, do vậy các vùng đất ngập nước của Việt Nam là đối tượng phát triển của các ngành, các lĩnh vực kinh tế và các địa phương. Nhiều vùng đất ngập nước từ bao đời nay là nơi cư trú, tạo dựng nền văn minh cho người Việt, đặc biệt là nền văn minh “lúa nước”. Các hệ sinh thái đất ngập nước có 4 giá trị cơ bản, đó là cung cấp tài nguyên, điều hòa môi trường, hỗ trợ chống lại các tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu, dịch vụ văn hóa.
Theo Luật Đa dạng sinh học năm 2008: “Đất ngập nước tự nhiên là vùng đầm lầy, than bùn hoặc vùng đất thường xuyên hay tạm thời, kể cả vùng biển có độ sâu không quá 6m khi ngấn nước thủy triều thấp nhất”. Như vậy, vùng đất ngập nước phải có mặt của nước, bất kể nguồn nước có từ đâu như nước mưa, nước do tuyết tan, trong ao hồ, đầm lầy, sông suối, kênh mương, cửa biển, vùng biển cạn hoặc nước ngầm, nước đọng trong đất, nước trong các thổ nhưỡng. Sự có mặt của nước có thể thường xuyên hay thay đổi theo mùa, thay đổi bất thường do tác động của thiên nhiên và con người.
Giáo sư Tiến sĩ Mai Trọng Nhuận, Đại học Quốc gia Hà Nội khẳng định: Các vùng đất ngập nước của Việt Nam có nhiều chức năng quan trọng như nạp và tiết nước ngầm, cung cấp nước ngọt, điều hòa sinh thái và khí hậu, sản xuất sinh khối, hạn chế lũ lụt, chắn sóng và gió bão, chống xói lở và ổn định bờ biển. Đồng thời là nơi du lịch giải trí, duy trì hệ sinh thái. Tạo môi trường hoạt động cho nhiều ngành kinh tế như thủy sản, lâm nghiệp, giao thông vận tải, sản xuất năng lượng, du lịch, khai khoáng…
Riêng về chức năng ổn định bờ biển, chống xói lở và hạn chế sóng thần. Có thể nhận rõ nhờ có thảm thực vật, nhất là thảm thực vật rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và rạn san hô mà các vùng đất ngập nước ven bờ có chức năng bảo vệ bờ biển khỏi sự tác động của sóng, thủy triều, xói lở, sóng thần và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Ngoài ra còn tạo môi trường thuận lợi cho việc lắng đọng phù sa, góp phần ổn định và mở rộng bãi bồi. Các rạn san hô ngầm rộng lớn ven bờ giúp giảm cường độ sóng tác động đến bờ biển, các vùng ven đảo trong thời kỳ dông bão, sóng thần.
Tuy vậy, những năm gần đây diện tích các vùng đất ngập nước tự nhiên (rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển…) đang bị suy giảm nghiêm trọng, do các hoạt động khai hoang để làm nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, khai thác thủy - hải sản. Do đó đường bờ biển liên tục bị biến động, chiều dài xói lở bờ biển tại Đồng bằng sông Cửu Long, Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Bộ không ngừng gia tăng tới mức báo động.
Các giá trị to lớn
Có thể khẳng định rằng, các vùng đất ngập nước luôn là nguồn sống của một bộ phận khá lớn của người dân Việt Nam, mang lại lợi ích và giá trị to lớn về kinh tế - xã hội - văn hóa - lịch sử - môi trường; đóng góp rất quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Minh chứng sống động là trong những năm qua, những thành quả mà các vùng đất ngập nước mang lại có giá trị kinh tế lớn lao. Tiêu biểu là trong nông nghiệp, Việt Nam vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới; kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2017 đạt 8,3 tỷ USD đứng vị trí tốp 10 ngành cả nước có kim ngạch xuất khẩu cao.
Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch dựa trên các giá trị của đất ngập nước, cụ thể là vùng đất ngập nước đảo Cát Bà, Côn Đảo, Phong Nha - Kẻ Bàng; các Vườn quốc gia như U Minh Thượng, các khu du lịch sinh thái Vườn quốc gia Xuân Thủy, rừng ngập mặn Cần Giờ, Vườn quốc gia Ba Bể… là những điểm thu hút đông đảo khách trong nước và ngoài nước đến tham quan, du lịch và nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, trung bình mỗi năm 1 ha rừng ngập mặn tạo ra từ 14 - 756 kg tôm, 13 - 64 kg cua biển, 257 - 900 kg ốc, sò… góp phần nâng cao cuộc sống của người nông dân, giảm đáng kể tỷ lệ hộ nghèo.
Theo kết quả khảo sát của Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học, việc khai thác, sử dụng tài nguyên đất ngập nước gắn với sự hình thành các lễ hội với những giá trị văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng và khảo cổ rất quan trọng đối với cộng đồng địa phương, quốc gia và khu vực. Đất ngập nước của Việt Nam là cội nguồn của nền văn minh lúa nước. Cuộc sống văn hóa của người dân vùng đất ngập nước rất gần gũi với thiên nhiên và các sản phẩm của đất ngập nước.
Rất nhiều loài động vật, thực vật của các vùng đất ngập nước trở thành biểu tượng, vật thờ cúng thiêng liêng như hoa sen được chạm khắc trong các chùa chiền, miếu mạo, được thể hiện trong các điệu múa, ca dao; hay chim hạc và và rồng là 2 trong 4 loài sinh vật quý có ý nghĩa, có đời sống liên quan đến đất ngập nước, là vật thờ thiêng liêng; hoặc rối nước của Việt Nam là loại hình nghệ thuật được thế giới mến mộ.
Các vùng đất ngập nước thuộc các Khu bảo tồn thiên nhiên Tiền Hải, Ông Trang, Thạch Phú… Các Vườn quốc gia Xuân Thủy, Cát Bà, Mũi Cà Mau… đang là nơi đến không chỉ tham quan du lịch, mà còn là nơi các nhà khoa học tìm đến nghiên cứu về giá trị, chức năng của đất ngập nước về bảo tồn đa dạng sinh học, quản lý và khai thác, bảo vệ môi trường tự nhiên.
Văn Hào